Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
405427

NỘI DUNG TÓM TẮT VÀ MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN (Luật số 85/2015/QH13)

Ngày 11/04/2016 14:31:29

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) thông qua tại Đại hội XI khẳng định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân...

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) thông qua tại Đại hội XI khẳng định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản ViệtNamlãnh đạo”. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng nhiều hình thức khác nhau, hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình.

Nói về vai trò của bầu cử. Liên minh Nghị viện thế giới khẳng định: “Yếu tố then chốt của một nền dân chủ là một chế độ bầu cử tự do và trung thực”[1]. Jame A. Baker, một chuyên gia nghiên cứu về chế độ bầu cử đã viết:“Bầu cử tự do và công bằng là trái tim của dân chủ”. Có thể nói rằng, bầu cử tự do, công bằng là nền tảng của của một Nhà nước tự do dân chủ, vì vậy tất cả các quốc gia tiến bộ trên thế giới đều xây dựng chế độ tuyển cử tự do để bầu Nghị viện và các Hội đồng địa phương. Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử, không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái…hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó cho nên tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là dân chủ, đoàn kết”[2].

Để phục vụ cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) nhiệm kỳ 2016-2021 sẽ diễn ra vào năm 2016, ngày 25/6/2015 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, có hiệu lực từ ngày 01/9/2015. Để cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội Khoá XIV và bầu cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2016-2021 thành công tốt đẹp góp phần quan trọng cho việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, việc nghiên cứu nội dung của Luật, đặc biệt là các điểm mới của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND ban hành năm 2015 là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội đầu tiên (1960), đến nay đã được Quốc hội sửa đổi 7 lần (1964, 1980, 1992, 1997, 2001, 2010 và 2015). Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND lần này (2015) đã kế thừa và phát triển các quy định trong các luật bầu cử hiện hành; đồng thời, sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Hiến pháp mới, khắc phục những hạn chế, bất cập liên quan đến quy trình, thủ tục trong bầu cử; pháp điển hoá một số nội dung trong hướng dẫn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND. Luật gồm 10 chương với 98 điều.

Chương Itừ Điều 1 đến Điều 6 quy định về nguyên tắc bầu cử; tuổi bầu cử và tuổi ứng cử; tiêu chuẩn của người ứng cử; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong công tác bầu cử; ngày bầu cử; kinh phí tổ chức bầu cử.

Điểm mới trong Luật này là trao thẩm quyền quyết định ngày bầu cử; quyết định việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội trong thời gian giữa nhiệm kỳ; quyết định thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia cho Quốc hội thay vì do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện như trước đây. Ngày bầu cử công bố chậm nhất là 115 ngày trước ngày bầu cử (Luật cũ là 105 ngày).

Chương IItừ Điều 7 đến Điều 11 quy định về dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu.

Điểm mới trong Luật lần này là số lượng người dân tộc thiểu số được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Hội đồng dân tộc của Quốc hội, bảo đảm có ít nhất 18% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số. Số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ.

Cùng với đó, Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người được giới thiệu để ứng cử đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã trong đó bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND là phụ nữ; số người ứng cử là người dân tộc thiểu số được xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương.

Chương IIItừ Điều 12 đến Điều 28 quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương.

Hội đồng bầu cử quốc gia là một thiết chế hiến định mới trong Hiến pháp 2013. Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội thành lập (Luật cũ gọi là Hội đồng bầu cử ở Trung ương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập) có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp. Luật quy định cụ thể ba nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia: nhiệm vụ, quyền hạn chung của Hội đồng bầu cử quốc gia đối với công tác bầu cử; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, trong đó có nhiệm vụ trình Quốc hội kết quả xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội được bầu và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia đối với bầu cử đại biểu HĐND các cấp. Chương này cũng quy định về cơ cấu, tổ chức, nguyên tắc hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia; nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các uỷ viên và bộ máy giúp việc của Hội đồng bầu cử quốc gia; quy định về cách thức thành lập, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử và thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương.

Chương IVtừ Điều 29 đến Điều 34quy định về danh sách cử tri: nguyên tắc lập danh sách cử tri; những trường hợp không được ghi tên, xoá tên hoặc bổ sung tên vào danh sách cử tri; thẩm quyền lập danh sách cử tri; niêm yết danh sách cử tri; khiếu nại về danh sách cử tri và việc bỏ phiếu ở nơi khác.

Điểm mới là mở rộng cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Chương Vtừ Điều 35 đến Điều 61 chia làm 4 mục: ứng cử; hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội; hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu HĐND và mục về danh sách những người ứng cử.

Chương VItừ Điều 62 đến Điều 68 quy định về tuyên truyền, vận động bầu cử: trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, vận động bầu cử; nguyên tắc vận động bầu cử; thời gian tiến hành vận động bầu cử; hình thức vận động bầu cử; hội nghị tiếp xúc cử tri; vận động bầu cử thông qua phương tiện thông tin đại chúng và những hành vi bị cấm trong vận động bầu cử.

Chương VIItừ Điều 69 đến Điều 72 quy định về nguyên tắc và trình tự bỏ phiếu. Luật giữ nguyên quy định về thời gian bỏ phiếu bắt đầu từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối cùng ngày. Tuỳ tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng không được trước 5 giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá 9 giờ tối cùng ngày (Luật cũ là không quá 10 giờ đêm). Quy định này nhằm đảm bảo kết quả kiểm phiếu của các khu vực bầu cử không tác động đến việc bầu cử của khu vực bỏ phiếu khác.

Chương VIIItừ Điều 73 đến Điều 88 quy định về kết quả bầu cử, gồm 4 mục: việc kiểm phiếu; kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử; bầu cử thêm, bầu cử lại; và tổng kết cuộc bầu cử.

Chương IXtừ Điều 89 đến Điều 94quy định về bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND gồm: bầu cử bổ sung; tổ chức phụ trách bầu cử bổ sung; danh sách cử tri trong bầu cử bổ sung; ứng cử và hiệp thương, giới thiệu người ứng cử trong bầu cử bổ sung; trình tự bầu cử, xác định kết quả trong bầu cử bổ sung và khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bầu cử bổ sung.

Chương Xtừ Điều 95 đến Điều 98quy định về xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử, quy định chuyển tiếp và hiệu lực thi hành.

Những nơi thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Luật này có quy định riêng đối với việc tổ chức bầu cử tại các huyện, quận, phường thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường.



[1]Thái Vĩnh Thắng, Một số suy nghĩ về đổi mới chế độ bầu cử, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2011

[2]Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4

(Nguồn:Phòng Khoa học - Ngày 04/9/2015)

NỘI DUNG TÓM TẮT VÀ MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN (Luật số 85/2015/QH13)

Đăng lúc: 11/04/2016 14:31:29 (GMT+7)

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) thông qua tại Đại hội XI khẳng định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân...

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) thông qua tại Đại hội XI khẳng định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản ViệtNamlãnh đạo”. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng nhiều hình thức khác nhau, hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình.

Nói về vai trò của bầu cử. Liên minh Nghị viện thế giới khẳng định: “Yếu tố then chốt của một nền dân chủ là một chế độ bầu cử tự do và trung thực”[1]. Jame A. Baker, một chuyên gia nghiên cứu về chế độ bầu cử đã viết:“Bầu cử tự do và công bằng là trái tim của dân chủ”. Có thể nói rằng, bầu cử tự do, công bằng là nền tảng của của một Nhà nước tự do dân chủ, vì vậy tất cả các quốc gia tiến bộ trên thế giới đều xây dựng chế độ tuyển cử tự do để bầu Nghị viện và các Hội đồng địa phương. Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử, không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái…hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó cho nên tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là dân chủ, đoàn kết”[2].

Để phục vụ cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) nhiệm kỳ 2016-2021 sẽ diễn ra vào năm 2016, ngày 25/6/2015 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, có hiệu lực từ ngày 01/9/2015. Để cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội Khoá XIV và bầu cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2016-2021 thành công tốt đẹp góp phần quan trọng cho việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, việc nghiên cứu nội dung của Luật, đặc biệt là các điểm mới của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND ban hành năm 2015 là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội đầu tiên (1960), đến nay đã được Quốc hội sửa đổi 7 lần (1964, 1980, 1992, 1997, 2001, 2010 và 2015). Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND lần này (2015) đã kế thừa và phát triển các quy định trong các luật bầu cử hiện hành; đồng thời, sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Hiến pháp mới, khắc phục những hạn chế, bất cập liên quan đến quy trình, thủ tục trong bầu cử; pháp điển hoá một số nội dung trong hướng dẫn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND. Luật gồm 10 chương với 98 điều.

Chương Itừ Điều 1 đến Điều 6 quy định về nguyên tắc bầu cử; tuổi bầu cử và tuổi ứng cử; tiêu chuẩn của người ứng cử; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong công tác bầu cử; ngày bầu cử; kinh phí tổ chức bầu cử.

Điểm mới trong Luật này là trao thẩm quyền quyết định ngày bầu cử; quyết định việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội trong thời gian giữa nhiệm kỳ; quyết định thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia cho Quốc hội thay vì do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện như trước đây. Ngày bầu cử công bố chậm nhất là 115 ngày trước ngày bầu cử (Luật cũ là 105 ngày).

Chương IItừ Điều 7 đến Điều 11 quy định về dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu.

Điểm mới trong Luật lần này là số lượng người dân tộc thiểu số được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Hội đồng dân tộc của Quốc hội, bảo đảm có ít nhất 18% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số. Số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ.

Cùng với đó, Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người được giới thiệu để ứng cử đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã trong đó bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND là phụ nữ; số người ứng cử là người dân tộc thiểu số được xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương.

Chương IIItừ Điều 12 đến Điều 28 quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương.

Hội đồng bầu cử quốc gia là một thiết chế hiến định mới trong Hiến pháp 2013. Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội thành lập (Luật cũ gọi là Hội đồng bầu cử ở Trung ương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập) có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp. Luật quy định cụ thể ba nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia: nhiệm vụ, quyền hạn chung của Hội đồng bầu cử quốc gia đối với công tác bầu cử; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, trong đó có nhiệm vụ trình Quốc hội kết quả xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội được bầu và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia đối với bầu cử đại biểu HĐND các cấp. Chương này cũng quy định về cơ cấu, tổ chức, nguyên tắc hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia; nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các uỷ viên và bộ máy giúp việc của Hội đồng bầu cử quốc gia; quy định về cách thức thành lập, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử và thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương.

Chương IVtừ Điều 29 đến Điều 34quy định về danh sách cử tri: nguyên tắc lập danh sách cử tri; những trường hợp không được ghi tên, xoá tên hoặc bổ sung tên vào danh sách cử tri; thẩm quyền lập danh sách cử tri; niêm yết danh sách cử tri; khiếu nại về danh sách cử tri và việc bỏ phiếu ở nơi khác.

Điểm mới là mở rộng cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Chương Vtừ Điều 35 đến Điều 61 chia làm 4 mục: ứng cử; hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội; hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu HĐND và mục về danh sách những người ứng cử.

Chương VItừ Điều 62 đến Điều 68 quy định về tuyên truyền, vận động bầu cử: trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, vận động bầu cử; nguyên tắc vận động bầu cử; thời gian tiến hành vận động bầu cử; hình thức vận động bầu cử; hội nghị tiếp xúc cử tri; vận động bầu cử thông qua phương tiện thông tin đại chúng và những hành vi bị cấm trong vận động bầu cử.

Chương VIItừ Điều 69 đến Điều 72 quy định về nguyên tắc và trình tự bỏ phiếu. Luật giữ nguyên quy định về thời gian bỏ phiếu bắt đầu từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối cùng ngày. Tuỳ tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng không được trước 5 giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá 9 giờ tối cùng ngày (Luật cũ là không quá 10 giờ đêm). Quy định này nhằm đảm bảo kết quả kiểm phiếu của các khu vực bầu cử không tác động đến việc bầu cử của khu vực bỏ phiếu khác.

Chương VIIItừ Điều 73 đến Điều 88 quy định về kết quả bầu cử, gồm 4 mục: việc kiểm phiếu; kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử; bầu cử thêm, bầu cử lại; và tổng kết cuộc bầu cử.

Chương IXtừ Điều 89 đến Điều 94quy định về bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND gồm: bầu cử bổ sung; tổ chức phụ trách bầu cử bổ sung; danh sách cử tri trong bầu cử bổ sung; ứng cử và hiệp thương, giới thiệu người ứng cử trong bầu cử bổ sung; trình tự bầu cử, xác định kết quả trong bầu cử bổ sung và khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bầu cử bổ sung.

Chương Xtừ Điều 95 đến Điều 98quy định về xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử, quy định chuyển tiếp và hiệu lực thi hành.

Những nơi thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Luật này có quy định riêng đối với việc tổ chức bầu cử tại các huyện, quận, phường thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường.



[1]Thái Vĩnh Thắng, Một số suy nghĩ về đổi mới chế độ bầu cử, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2011

[2]Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4

(Nguồn:Phòng Khoa học - Ngày 04/9/2015)
0 bình luận
(Bấm vào đây để nhận mã)

Tin nóng

Thông báo niêm yết công khai lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư về đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 dự án: Khu tái định cư tập trung Băng Lươm, xã Yên Nhân, huyện Thường Xuân
Đảng ủy xã Yên Nhân tổ chức Hội nghị nghiên cứu, học tập chuyên đề năm 2024 về “học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và quán triệt, triển khai thực hiện các kết luận, chỉ thị, quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII và của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam xã Yên Nhân lần thứ XI, nhiệm kỳ 2024-2029
Đảng bộ xã Yên Nhân tổ chức Lễ trao tặng huy hiệu Đảng cho các đồng chí Đảng viên đợt 03 tháng 02 năm 2024
Xã Yên Nhân tổ chức Lễ phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Giáp Thìn năm 2024.
Hội nghị Công bố Quyết định gọi công dân nhập ngũ năm 2024
Đảng ủy xã Yên Nhân tổ chức Hội nghị Nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các Nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị khóa XIII
Bài tuyên truyền một số biện pháp bảo đảm an toàn thực phẩm trong dịp tết Nguyên đán Giáp Thìn và mùa Lễ hội Xuân 2024